Ngày nọ, một giáo dân trình bày với tôi hoàn cảnh của chị: Khi mới sang Đức tị nạn, sau khi đã có giấy tờ hợp pháp và bắt đầu đi làm, chị cũng như mọi người đều đóng thuế thu nhập và phải khai tôn giáo.
Ngày nọ, một giáo dân trình bày với tôi hoàn cảnh của chị: Khi mới sang Đức tị nạn, sau khi đã có giấy tờ hợp pháp và bắt đầu đi làm, chị cũng như mọi người đều đóng thuế thu nhập và phải khai tôn giáo.
Thật vậy, Kirchensteuer hay “thuế nhà thờ” là một vấn đề căng thẳng “trăm năm trong cõi” Giáo hội và Nhà nước, dù thể chế cộng hòa đã khẳng định sự tách biệt giữa tôn giáo và trần thế. Đức là một trong những nước còn duy trì thuế nhà thờ, dù số người giữ đạo của cả hai Giáo hội lớn là Tin Lành Luther và Công giáo La Mã đã giảm sút rất nhiều.
Bao lâu một công dân còn công khai tuyên xưng mình là tín hữu, thì nhân viên sở thuế cứ theo quy định mà thu tiền. Số tiền này sẽ được sử dụng theo các mục đích đã được thống nhất giữa nhà nước và các giáo hội, như phí hành chánh, lương cho các nhân viên mục vụ (trừ các linh mục vì hưởng lương nhà nước), xây dựng cơ sở, giáo dục, y tế và bác ái…
Tính cùng với khoản thu thường niên toàn quốc chừng 6 tỉ euro đối với Giáo hội Công giáo và 5,5 tỉ euro với Giáo hội Tin Lành thì con số này quả thật không nhiều. Trong khi các khoản chi cho nhân viên giáo xứ từ ông từ nhà thờ, người chăm lo mục vụ giáo lý, người đánh đàn… đã chiếm gần một nửa.
Số tín hữu ít thì tiền thu thuế nhà thờ sẽ giảm đi. Tuy nhiên với người Đức, một xu cũng là tiền và phải làm tới cùng cho ra lẽ! Vì đây là khoản thuế tự nguyện nên người tín hữu có quyền… không đóng thuế bằng cách ra khỏi Giáo hội và theo đó, các quyền được chăm sóc mục vụ cũng bị từ chối. Và cũng bởi bản tính tự trọng, ai đã công khai bước ra rồi thì không len lén quay lại.
Đối với một “nhân viên mục vụ” như tôi, vốn đến từ một nước nơi mà các tổ chức tôn giáo vận hành bằng cúng dường, bỏ tiền thau hay xin lễ, thì việc đóng thuế và “on/off ” trong đức tin bằng giấy tờ và tiền bạc là một điều mới lạ và… khó nghĩ.
Chợt nhớ ngày xưa Đức Giêsu cũng đã từng bảo Phêrô cạy miệng cá lấy tiền đóng thuế, nhưng bây giờ đành chịu vì làm gì có cá ngậm tiền như thời Đấng Mêsia. Dầu vậy, Đức Giêsu đã không ít lần phải đối diện với mối nan giải giữa tiền thuế và những giá trị Tin Mừng.
Khi đưa ra lời nhận xét về đồng xu mà bà góa nghèo bỏ vào hòm tiền trong đền thờ, Đức Giêsu đã mở ra một nguyên lý mới về… đóng thuế nhà thờ. Nếu tiền thuế cuộc sống được tính trên mức thu nhập thặng dư hiện tại, thì đóng thuế theo kiểu Đức Giêsu lại dựa trên mức độ nghèo túng cơ bản của hoàn cảnh mình.
Bà cụ ấy đóng góp từ chính hoàn cảnh nghèo khó của mình. Cách nhìn trên của Đức Giêsu mang lại một sự giải phóng kép. Một đàng nó giải thoát người tín hữu khỏi tình trạng khó xử của mối công bằng khó thực hiện giữa nhà nước và Giáo hội để khám phá tình trạng nghèo nàn của mình. Đàng khác, nó cũng giải phóng các định chế, đặc biệt ở đây là Giáo hội, khỏi sự chờ đợi đóng góp của các tín hữu khi đến với Chúa, ngang qua trung gian của mình, để tự do hơn trong mức độ hữu hiệu phục vụ.
Nhìn bên ngoài, nếu là người đương thời, có vẻ Đức Giêsu là người “dị ứng” với chuyện đóng thuế nhà thờ hay “xin lễ với bao thư to”, nhưng kỳ thực, Đức Giêsu không chê chối những khoản đóng góp lớn của người giàu. Người chỉ muốn cân bằng khoản tiền nhỏ của người nghèo bằng tấm lòng của họ, vốn là điều kín kẽ, khó thấy và ít khoa trương hơn.
Tại Đức, các cộng đồng tôn giáo hưởng khoản thu từ “thuế nhà thờ” vẫn không xin quốc hội bãi bỏ luật thuế này, nhưng cố gắng tái xây dựng sự khả tín của mình, hiệu quả và năng động hơn trong phục vụ, khoan dung và sáng tạo hơn trong tương quan với các tín hữu của mình.
Cách nào đó, Giáo hội đã cố chuyển khoản thu nhập thuế nhà thờ vào sổ tiết kiệm Thiên Đàng bằng chính sự cải thiện trong phục vụ của mình. Đó là tinh thần của một Giáo hội muốn xây dựng Nước Thiên Chúa trong tư thế của một bà góa nghèo.
Một số giáo hội địa phương khác, trong khi không được đảm bảo bằng thuế nhà thờ, vẫn thịnh vượng hơn nhờ các dâng cúng quảng đại của giáo dân. Đó hẳn là điều đáng mừng. Điều cần tránh là đừng để cho Nước Thiên Chúa bị đồng hóa vào cái “hoành tráng” của thực tại Giáo hội ấy, cho bằng sự âm thầm “lấy thu bù chi” cho những người nghèo đang đến với Giáo hội, mà Giáo hội đang có liên hệ với họ qua những đồng kẽm nhỏ nhoi.
Lúc nãy, chúng ta đã nói “đồng tiền của César thì không mua được nước Thiên Chúa”, nhưng bây giờ phải thêm vào “nhưng người ta có thể hy vọng thấy Thiên Chúa khi cầm đồng tiền César với đôi tay bà góa”.
Thuế thị dân được tính dựa theo thu nhập trong vòng 1 năm, tính từ ngày 1/1 đến ngày 31/12, do đó theo nguyên tắc, bạn sẽ phải nộp thuế thị dân cho địa phương mà bạn đăng ký cư trú tại thời điểm ngày 1/1 của năm đó (tháng 6 năm tiếp theo sẽ nộp).
Sau ngày 1/1 bạn có chuyển nơi ở sang địa phương khác thì thuế thị dân của năm đó vẫn được tính cho địa phương cũ. Việc nộp thuế thị dân cho địa phương nơi ở mới sẽ được thực hiện từ năm tiếp theo.
Để dễ hiểu, các bạn hãy xem hình minh hoạ về thời gian như dưới đây:
Giả sử bạn đăng ký cư trú ở thành phố A vào thời điểm 1/1/2020, đến tháng 3 năm 2020 thì chuyển nhà sang thành phố B. Khi đó, vì ở thời điểm 1/1/2020 bạn vẫn là đăng ký cư trú thuộc thành phố A nên thuế thị dân phát sinh của năm 2020 (thu nhập năm 2019) sẽ nộp cho thành phố A (vào tháng 6 năm 2020).
Thuế thị dân nộp cho thành phố B (thu nhập năm 2020), và được nộp vào tháng 6 năm 2021 (thời điểm 1/1/2021 bạn cư trú ở thành phố B)
Vậy, có khi nào bạn nhận được tờ yêu cầu đóng thuế từ cả 2 địa phương cho cùng 1 năm không?
Câu trả lời là không, vì về nguyên tắc sẽ chỉ có địa phương nơi mà bạn đăng ký cư trú mới thu thuế thị dân của bạn. Trường hợp bạn chuyển nơi ở nhưng lại chưa làm thủ tục chuyển địa chỉ (転出・転入届)thì địa phương cũ vẫn sẽ gửi giấy yêu cầu đóng thuế thị dân cho bạn. Số tiền thuế này có thể khác so với thuế thị dân ở nơi ở mới. Do đó sau khi chuyển nhà, để đóng số tiền thuế hợp lý thì bạn nên nhanh chóng hoàn tất thủ tục chuyển địa chỉ sang địa chỉ mới càng sớm càng tốt nhé.
Thuế thị dân được tính dựa theo thu nhập trong vòng 1 năm, tính từ ngày 1/1 đến ngày 31/12, do đó theo nguyên tắc, bạn sẽ phải nộp thuế thị dân cho địa phương mà bạn đăng ký cư trú tại thời điểm ngày 1/1 của năm đó (tháng 6 năm tiếp theo sẽ nộp).
Sau ngày 1/1 bạn có chuyển nơi ở sang địa phương khác thì thuế thị dân của năm đó vẫn được tính cho địa phương cũ. Việc nộp thuế thị dân cho địa phương nơi ở mới sẽ được thực hiện từ năm tiếp theo.
Để dễ hiểu, các bạn hãy xem hình minh hoạ về thời gian như dưới đây:
Giả sử bạn đăng ký cư trú ở thành phố A vào thời điểm 1/1/2020, đến tháng 3 năm 2020 thì chuyển nhà sang thành phố B. Khi đó, vì ở thời điểm 1/1/2020 bạn vẫn là đăng ký cư trú thuộc thành phố A nên thuế thị dân phát sinh của năm 2020 (thu nhập năm 2019) sẽ nộp cho thành phố A (vào tháng 6 năm 2020).
Thuế thị dân nộp cho thành phố B (thu nhập năm 2020), và được nộp vào tháng 6 năm 2021 (thời điểm 1/1/2021 bạn cư trú ở thành phố B)
Vậy, có khi nào bạn nhận được tờ yêu cầu đóng thuế từ cả 2 địa phương cho cùng 1 năm không?
Câu trả lời là không, vì về nguyên tắc sẽ chỉ có địa phương nơi mà bạn đăng ký cư trú mới thu thuế thị dân của bạn. Trường hợp bạn chuyển nơi ở nhưng lại chưa làm thủ tục chuyển địa chỉ (転出・転入届)thì địa phương cũ vẫn sẽ gửi giấy yêu cầu đóng thuế thị dân cho bạn. Số tiền thuế này có thể khác so với thuế thị dân ở nơi ở mới. Do đó sau khi chuyển nhà, để đóng số tiền thuế hợp lý thì bạn nên nhanh chóng hoàn tất thủ tục chuyển địa chỉ sang địa chỉ mới càng sớm càng tốt nhé.